Truyện Cổ Tích: Sự tích trái Sầu Riêng

Sự tích trái Sầu Riêng 

Ngày ấy, vào thời Tây Sơn, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng Nai. Chàng là người tài kiêm văn võ, đã từng vung gươm hưởng ứng cái bất bình của mọi người. Chàng từng cầm quân mấy lần làm cho tớ thầy chúa Nguyễn chạy dài.

Nhà Tây Sơn mất, chàng lui về quê nhà mượn nghề dạy học để náu hình ẩn tích. Đột nhiên có tin dữ truyền đến làm cho mọi người xao xuyến. Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người đã từng làm quan cho nhà Tây Sơn. Nhà vua cứ dựa vào chức tước lớn hay nhỏ của họ mà gia hình: tư mã, quận công thì lăng trì, tùng xẻo; vệ úy, phân suất thì đánh gậy, phạt roi, v.v...

Dân trong xóm sẵn lòng quý mến, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ mui lồng để tiện đi lại.

Vì không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp.

Một hôm chàng cắm sào lên bộ mua thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi, về đến đây thì con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng hết sức chạy chữa, cuối cùng cũng giúp cô gái lấy lại sức khỏe. Và sẵn có thuyền riêng, chàng chở họ về tận nhà.

Nàng là con gái chưa chồng, đã đến tuổi quay xa đạp cửi. Nàng có vẻ đẹp thùy mị. Tự nhiên có anh chàng trai người Việt ở đâu tận xa xôi đến trú ngụ tại nhà làm cho nàng quyến luyến.

Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lấy cuộc sống mới cho qua ngày. Từ đây chàng có chỗ ở nhất định. Nhà nàng là nhà làm ruộng nuôi tằm. Những việc đó chàng đều làm được cả.

Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt với nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu rên" mà ở xứ sở chồng không có. Lần ấy gặp kỳ quả chín đầu mùa, vợ trèo lên cây trẩy xuống một quả, xẻ đưa cho chồng ăn. Quả "tu rên" vốn có một mùi hôi đặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt vợ bảo:

- Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.

Không ngờ một năm kia, vợ đi dâng hương về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng.

Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con chàng ở quê hương nhắn tin lên bảo về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng nên đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết là mình sẽ theo chàng cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy cây "tu rên" tự nhiên chỉ hiện ra có mỗi một quả. Và quả "tu rên" đó tự nhiên rơi vào vạt áo giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về xứ sở.

Chàng lại trở về nghề cũ. Nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt "tu rên" thành cây đem trồng trong vườn ngoài ngõ. Từ đây, ngoài công việc dạy học còn có công việc chăm nom cây quý.

Những cây "tu rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng ông già ấy lòng bỗng trẻ lại khi thấy những hàng cây mà mình bấy lâu chăm chút nay đã bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng  làng xóm tới dự đám giỗ của vợ và nhân thể thưởng thức một thứ quả lạ đầu tiên có ở trong vùng.

Khi những quả "tu rên" bưng ra đặt lên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Nhưng chủ nhân biết ý đã nói đón: - "... Nó xấu xí nó hôi, nhưng múi của nó ở trong lại đẹp đẽ thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ...". Ông vừa nói vừa xẻ những quả "tu rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Múi "tu rên" nuốt vào đến cổ quả có một vị ngon ngọt lạ thường. Đoạn, ông kể hết đoạn tình duyên xưa mà từ lúc về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Và khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy long lanh hai giọt lệ nhỏ đúng vào múi "tu rên" đang cầm ở tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi "tu rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.

Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy dân làng mỗi lần ăn thứ quả đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu rên" bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng dõi loại hạt có hai giọt nước mắt của anh chàng nhỏ vào thì mới là giống sầu riêng ngon [1].

[1] Theo Phạm Tường Hạnh trong Xuân 1957. Một truyện khác cũng do một vài người Nam Bộ kể, bảo quả sầu riêng có từ đời Cao Biền. Nội dung của truyện đại khái đề cao Cao Biền mà hạ thấp giá trị của người Việt, nên ở đây chúng tôi không thuật.

Ý nghĩa của câu chuyện cổ tích “Sự tích trái sầu riêng”

“Sự tích trái sầu riêng” không chỉ là một truyện kể dân gian giàu tính nhân văn mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về tình yêu, lòng trung hiếu và bản sắc văn hóa của người Việt.

Trước hết, câu chuyện đề cao tình yêu chung thủy và sâu nặng giữa chàng trai người Việt và cô gái Chân Lạp. Mối lương duyên ấy không phải là sự ràng buộc bởi lễ nghi hay điều kiện vật chất, mà bắt nguồn từ sự đồng điệu trong tâm hồn, từ ơn cứu mạng, rồi hóa thành tình yêu, nghĩa vợ chồng sâu đậm. Họ đến với nhau bằng tấm lòng chân thật và sống với nhau trọn vẹn nghĩa tình suốt mười năm trời. Ngay cả khi người vợ qua đời, tình yêu của người chồng vẫn không hề phai nhạt, mà còn trở nên thiêng liêng, thủy chung tuyệt đối. Ông gìn giữ kỷ vật của vợ – chính là hạt giống cây "tu rên", nuôi trồng nó như nuôi dưỡng một phần hồn người đã khuất. Qua đó, truyện gửi gắm một thông điệp cảm động về tình yêu vĩnh cửu, vượt qua cả ranh giới của sự sống và cái chết.

Thứ hai, “Sự tích trái sầu riêng” còn ca ngợi phẩm chất trung nghĩa, khí tiết cao cả của con người thời loạn lạc. Chàng trai từng là nghĩa sĩ thời Tây Sơn, từng xông pha chiến trận vì chính nghĩa, sau khi triều đại sụp đổ, không chịu khuất phục triều đình mới mà lặng lẽ ẩn cư, tìm chốn tha hương để giữ trọn lòng trung. Tình yêu của chàng dành cho người vợ không chỉ là tình riêng mà còn là biểu hiện của một nhân cách lớn – trung với nước, hiếu với dân, nghĩa tình với gia đình và thủy chung với vợ hiền. Dẫu trong khổ đau hay hạnh phúc, chàng vẫn luôn sống có lý tưởng, có đạo đức, có tình người sâu sắc.

Thứ ba, câu chuyện còn là lời giải thích đầy xúc cảm về nguồn gốc tên gọi và đặc tính của trái sầu riêng – một loại quả nổi tiếng ở phương Nam. Vị thơm ngon đặc biệt của trái sầu riêng được lý giải qua hình ảnh giọt nước mắt long lanh vì tình của người chồng nhỏ vào từng múi sầu riêng. Cái tên "sầu riêng" không chỉ là tên một loại trái cây, mà còn là biểu tượng cho nỗi buồn riêng tư đầy nhân văn, chất chứa trong đó cả một chuyện tình bi thương và đẹp đẽ. Trái sầu riêng có vẻ ngoài gai góc, mùi hương nồng nhưng bên trong lại ngọt ngào, như chính mối tình trong truyện: nhiều thử thách, trắc trở nhưng chan chứa yêu thương.

Cuối cùng, truyện còn thể hiện sự giao thoa văn hóa Việt – Chân Lạp (Campuchia) một cách dung dị và chân thành. Dù khác quê hương, khác giống nòi, nhưng chàng trai người Việt và cô gái xứ Chân Lạp vẫn đến với nhau trong tình yêu và nghĩa vợ chồng. Điều này gửi gắm một thông điệp nhân văn: tình yêu chân thành có thể vượt qua mọi khác biệt về nguồn gốc, dân tộc và hoàn cảnh.

Tóm lại, “Sự tích trái sầu riêng” là một câu chuyện cổ tích đậm đà bản sắc Nam Bộ, kết hợp hài hòa giữa chất thơ, chất đời và chất nhân văn sâu sắc. Nó dạy con người biết trân trọng tình nghĩa vợ chồng, sống trung thực, thủy chung và nhân hậu. Đồng thời, qua đó, ta càng hiểu thêm và yêu quý hơn những sản vật bình dị của quê hương – như trái sầu riêng – không chỉ ngon ngọt mà còn thấm đẫm tình người.

Truyện Cổ Tích Việt Nam

Nhận xét

Tìm Danh Mục Liên Quan

Hiện thêm