Truyện cổ tích: Sự tích bánh Trung thu
Ngày xửa ngày xưa, suốt hàng thế kỷ mọi vật bị bao trùm bởi ánh sáng rực rỡ ban ngày. Con người không biết bóng đêm là gì. Thần Mặt Trời ngạo nghễ cho rằng không có mình soi sáng thì mọi vật không thể sống. Nhưng ở trên cao ông có biết đâu, mọi sinh linh cũng đang kiệt quệ vì mất nước và thiếu sức sống khi không có giấc ngủ ngon.
Vào những ngày hè oi bức, cái nắng nóng lừng lững phủ trùm trong không khí. Nước bốc hơi, lá xanh khắp nơi đổi màu vàng úa, con người đói khát vì hạn hán kéo dài.
Trong ngôi nhà nọ, có một bà mẹ cùng ba đứa con nhỏ của mình cũng đang héo hon, gầy mòn. Bà mẹ nhìn các con mà xót xa trong lòng. Một ngày kia, bà quyết định đi tìm thần Mặt Trời. Trước khi đi, bà dặn dò con trai cả rằng:
– Mẹ phải đi tìm thần mặt trời để xin ông ấy tắt bớt nắng và xin thần ban ít bóng đêm. Vì thế, mọi việc trong nhà mẹ trông chờ vào con. Con hãy chăm sóc các em thật chu đáo nhé!
Anh cả cúi đầu vâng dạ. Bà thu xếp một khạp gạo và một lu nước đầy cho các con có thể dùng đến ngày 15 trong tháng. Xong mọi việc bà hôn lên má từng đứa con và vác túi lên đường. Các con đứng tại ngưỡng cửa vẫy tay chào tạm biệt mẹ mà nước mắt lưng tròng. Bà mẹ cũng ngậm ngùi chia tay các con và hứa sẽ trở về nhanh chóng.
Bà đi mãi, đi mãi mà vẫn chưa đến được trời. Đến một ngọn núi, bà kiệt sức ngã quỵ bên đường. Tình cờ có một chú thỏ trắng chạy ngang qua, thấy bà gặp nạn, chú thỏ trắng tìm nước đưa cho bà uống. Bà tỉnh lại tâm sự cho thỏ trắng biết mọi việc. Thỏ trắng nghe bà kể cũng mủi lòng, thỏ liền dẫn lối cho bà. Bà đi theo thỏ khoảng hai dặm đường là tới trời. Vừa gặp bà, Thần đã quắc mắt lên và quát rằng:
– Ai đây? Ngươi không biết nơi đây là cấm địa của nhà trời à?
– Dạ, xin Thần, vì tôi không thể nhìn các con tôi chết mòn trong đói khát nên tôi mạo muội lên đây xin Thần ban mưa xuống, tắt bớt cái nắng mỗi ngày vài giờ để cho mọi người có giấc ngủ ngon.
– Cả gan thay người trần mắt thịt. Chẳng phải suốt hàng ngàn năm nay các người dùng nắng, dùng ánh sáng để mưu sinh hay sao? Giờ lại nói thế?
– Dạ, bẩm Thần. Đúng là chúng tôi rất cần ánh sáng cho công việc nhưng có những giờ phút nghỉ ngơi, ánh sáng làm chúng tôi không tài nào ngủ được. Dần dà chúng tôi bị mất sức, chẳng con người, con vật nào còn khả năng làm lụng nữa ạ! Mong thần suy xét lại!
Thần vén mây nhìn xuống trần gian, kinh ngạc khi nhìn thấy toàn một màu úa tàn. Cây cối chết khô, gia súc nằm lóp ngóp, con người vật vã, trẻ con than khóc,… cảnh vật tiêu điều, không còn sức sống. Ông buồn rầu bảo với bà rằng:
– Ta không thể tắt nắng để bóng đêm tràn ngập trên thế gian, vì cái nắng của ta góp phần xua đuổi tà ma dưới trần. Bóng đêm ngự trị thì bọn yêu ma sẽ lộng hành, con người lại gánh thêm bể khổ. Còn một cách là trong bóng đêm phải có ánh sáng để dẫn lối soi đường cho con người tránh được quỷ dữ. Nhưng ai sẽ hy sinh thân mình cho người khác để hóa thân thành thứ ánh sáng nhỏ nhoi đó?
Không ngần ngại, bà nhận lời hy sinh ngay nhưng bà xin Thần cho bà thời hạn một ngày để về gặp các con lần cuối. Chia tay Thần, bà về nhà, trong lòng nặng trĩu vì sắp xa các con mãi mãi. Bà cố nhoẻn miệng cười khi các con chạy lại ôm chầm lấy bà mừng rỡ.
Cuộc hội ngộ đoàn viên bên bữa cơm đầm ấm, đầy ấp tiếng cười. Bà dẫn người con cả ra đồng, chỉ dẫn con cách gieo mạ, bón phân và cấy lúa,… Rồi bà chỉ dẫn người con gái thứ cách may vá, thêu thùa từng đường kim mũi chỉ. Còn người con út bé nhỏ thơ ngây, bà ôm con vào lòng khuyên con phải biết vâng lời anh chị và học hành thật chăm ngoan. Trong một ngày bà đã hoàn thành xong mọi việc chu toàn cho các con cách tự tìm cái ăn, cái mặc,… Bà dặn dò các con:
– Dù mẹ có đi đến phương trời nào, mẹ vẫn dõi theo từng bước trưởng thành của các con. Hãy ghi nhớ lời mẹ con nhé!
Hôm ấy là rằm tháng tám, theo lời chỉ dẫn của Thần bà đứng trước nhà, hướng mặt nhìn trời và thả lỏng tinh thần. Bỗng chốc bà thấy cơ thể mình nhẹ tênh và bay bổng lên không trung,… đến nơi bà nhìn xuống, thấy màn đêm phủ trùm và một ánh sáng dịu nhạt soi bóng xuống trần gian. Bà nhìn về phía ngôi nhà cũ và thấy các con đang hô hoán, khóc than,… bà cũng không cầm được nước mắt.
Cho đến ngày nay, thứ ánh sáng lung linh đó người ta gọi là ánh trăng và vầng sáng tròn vằng vặc trên cao ấy người ta gọi là Mặt Trăng. Mặt Trăng được kết tinh từ tấm lòng của một người mẹ, luôn sáng soi dẫn lối cho các con thân yêu của mình.
Ánh trăng sáng tỏ nhất vào những đêm 15, 16 âm lịch vì đó là ngày hẹn hội ngộ của bốn mẹ con họ. Tương truyền rằng sau đêm hôm ấy, cứ đến ngày ấy trong năm, ba người con đều làm một mẻ bánh nướng, bánh dẻo để dâng hương cúng mẹ, đến nay người ta gọi là bánh Trung Thu.
Ý nghĩa câu chuyện "Sự tích bánh Trung Thu"
Câu chuyện cổ tích cảm động về người mẹ dũng cảm hy sinh để mang lại ánh trăng dịu mát cho trần gian không chỉ làm lay động trái tim người đọc, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân văn sâu sắc, thấm đẫm tình người, tình mẹ và bài học đạo lý cao đẹp.
Trước hết, truyện đề cao tình mẫu tử thiêng liêng – tình yêu thương vô điều kiện mà người mẹ dành cho con mình. Vì con, người mẹ trong truyện không ngại vượt qua bao gian nan, trèo non lội suối, lên tận trời cao để cầu xin thần Mặt Trời một điều tưởng chừng không thể: xin chút bóng đêm cho con người được nghỉ ngơi. Đỉnh cao của tình yêu ấy là sự hy sinh cao cả – chấp nhận hóa thân thành ánh trăng để sưởi ấm và soi sáng cho các con suốt đêm dài. Đây chính là biểu tượng bất diệt của lòng mẹ: luôn dõi theo, chở che con cái dù đã ở một thế giới khác.
Thứ hai, câu chuyện mang đến bài học về sự cân bằng trong cuộc sống. Truyện cho thấy rằng ánh sáng – dù là điều tốt đẹp – nếu quá nhiều cũng sẽ gây hại, như cái nắng chói chang khiến mọi sinh linh kiệt quệ. Bóng đêm – thường bị xem là đáng sợ – nếu biết điều hòa với ánh sáng thì lại mang đến sự nghỉ ngơi, tái sinh. Qua đó, truyện gửi gắm một chân lý sâu sắc: trong cuộc sống, điều gì thái quá đều không tốt; mọi sự cần có sự hài hòa, điều độ để tạo nên môi trường sống lý tưởng.
Thứ ba, truyện là lời nhắc nhở về lòng biết ơn và truyền thống hiếu đạo. Sau khi mẹ hóa thành ánh trăng, ba người con luôn ghi nhớ công ơn mẹ, mỗi năm đều làm bánh dâng mẹ vào đêm rằm tháng tám – ngày trăng tròn nhất. Chiếc bánh tròn không chỉ tượng trưng cho vầng trăng mà còn biểu tượng cho sự đoàn viên, hiếu nghĩa và lòng tưởng nhớ tổ tiên – giá trị cốt lõi trong đạo lý của người Á Đông.
Cuối cùng, ánh trăng trong truyện trở thành biểu tượng đẹp đẽ của niềm tin, sự ấm áp và hy vọng. Trong những đêm đen cuộc đời, nếu con người còn giữ trong lòng hình bóng yêu thương, còn ánh trăng soi lối, thì ta vẫn có thể vượt qua gian khổ, giữ vững đạo lý và gìn giữ những giá trị tinh thần thiêng liêng.
Tóm lại, “Sự tích bánh Trung Thu” là một câu chuyện cổ tích giàu cảm xúc, mang tính giáo dục cao. Nó không chỉ giải thích nguồn gốc ánh trăng và bánh Trung Thu bằng trí tưởng tượng phong phú, mà còn truyền tải thông điệp đẹp về tình mẹ, sự hy sinh, đạo hiếu và niềm tin vĩnh cửu vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Nhận xét
Đăng nhận xét