Tiếng hát con tàu
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
💥💥💥
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng.
💥💥💥
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
💥💥💥
Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân.
💥💥💥
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương.
💥💥💥
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
💥💥💥
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
💥💥💥
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
💥💥💥
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
💥💥💥
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
💥💥💥
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
💥💥💥
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương.
💥💥💥
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
💥💥💥
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.
💥💥💥
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
💥💥💥
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
💫💫💫
SOẠN BÀI: TIẾNG HÁT CON TÀU
I. Đôi nét về nhà thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên (1920–1989) là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị – một vùng đất miền Trung nghèo khó, giàu truyền thống yêu nước và văn hóa. Ngay từ tuổi thiếu niên, Chế Lan Viên đã sớm nổi danh trong làng thơ với tập Điêu tàn (1937), sáng tác khi ông mới 17 tuổi. Tập thơ này đã gây tiếng vang lớn nhờ thế giới thi ca huyền bí, siêu thực và giàu chất trí tuệ.
Tuy nhiên, dấu ấn nổi bật nhất trong hành trình sáng tác của Chế Lan Viên là sau năm 1945, khi ông bước vào cuộc sống cách mạng và gắn bó sâu sắc với nhân dân, với công cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước. Từ một hồn thơ u uất, nặng trĩu suy tư triết lý, thơ ông dần chuyển sang giọng điệu thiết tha, cháy bỏng tình yêu quê hương, con người và lý tưởng sống lớn lao.
Chế Lan Viên không chỉ là một thi sĩ, mà còn là một nhà lý luận phê bình văn học sắc sảo. Ông luôn trăn trở về vai trò và trách nhiệm của người nghệ sĩ trước nhân dân và thời đại. Những tác phẩm nổi tiếng sau này như Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường – chim báo bão, hay chính bài thơ Tiếng hát con tàu đã thể hiện rõ sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của ông.
Với phong cách thơ giàu suy tưởng, hình ảnh gợi cảm và giọng điệu đầy nội lực, Chế Lan Viên đã góp phần quan trọng làm nên diện mạo của thơ ca Việt Nam thế kỷ XX. Ông xứng đáng là một trong những cây đại thụ của thi đàn hiện đại.
II. Giới thiệu về bài thơ Tiếng hát con tàu
1. Xuất xứ
Tiếng hát con tàu là một trong những thi phẩm tiêu biểu của nhà thơ Chế Lan Viên, được sáng tác năm 1958, in trong tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960). Bài thơ ra đời trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ hòa bình sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó có phong trào đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới ở Tây Bắc – một vùng đất xa xôi nhưng giàu tiềm năng.
Bài thơ không chỉ là lời cổ vũ thiết tha với những người đang ngần ngại lên đường đến những vùng đất mới mà còn là tiếng lòng của chính tác giả – một nghệ sĩ từng trải, đang hồi tưởng, suy ngẫm và quyết tâm dấn thân cùng nhân dân, hòa vào mạch sống lớn của dân tộc.
2. Bố cục
Bài thơ gồm ba phần chính, triển khai theo mạch cảm xúc kết hợp giữa hồi tưởng và hiện tại:
-
Phần 1 (khổ 1 đến khổ 4): Tiếng gọi của Tây Bắc – khơi gợi khao khát lên đường, thôi thúc nhà thơ trở về với nhân dân, với cuộc sống thực tiễn.
-
Phần 2 (khổ 5 đến khổ 20): Hồi tưởng sâu sắc về những kỷ niệm nghĩa tình trong kháng chiến ở Tây Bắc – nơi đã hun đúc tâm hồn và lý tưởng của nhà thơ.
-
Phần 3 (khổ 21 đến hết): Lời khẳng định dứt khoát về lý tưởng sống – nhà thơ sẵn sàng lên đường, gắn bó cuộc đời mình với đất nước, với nhân dân và cách mạng.
Bố cục bài thơ không chia đoạn rõ ràng về mặt hình thức, nhưng nội dung được phát triển theo dòng cảm xúc liên tục, từ suy tư cá nhân đến tự vấn, rồi thăng hoa thành khát vọng hòa nhập với cuộc đời.
3. Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề Tiếng hát con tàu gợi ra nhiều tầng ý nghĩa biểu tượng, giàu hình ảnh và âm hưởng:
-
“Con tàu” ở đây không chỉ là phương tiện thực để đến với Tây Bắc, mà còn là biểu tượng của khát vọng ra đi, vượt thoát cái tôi chật hẹp, đến với cuộc sống rộng lớn hơn – nơi có nhân dân, có lý tưởng.
-
“Tiếng hát” tượng trưng cho tâm hồn thi sĩ, cho sự thăng hoa của cảm xúc, cho niềm vui, sự tự do khi nhà thơ được sống đúng với lý tưởng, được cống hiến cho đất nước.
-
Cả nhan đề kết hợp lại trở thành hình ảnh ẩn dụ lớn về hành trình trở về với nhân dân, hành trình sáng tạo nghệ thuật chân chính – nơi mà thơ ca không chỉ là cái đẹp của ngôn từ mà còn là tiếng nói của cuộc đời, của đất nước.
4. Nội dung
Bài thơ là một khúc tráng ca vừa trữ tình, vừa sâu sắc, thể hiện hành trình nội tâm của nhà thơ từ nghi ngại, lưỡng lự, đến tự vấn, hồi tưởng, rồi cuối cùng quyết tâm lên đường hòa nhập với cuộc sống mới của nhân dân.
-
Tác giả gợi lại những kỷ niệm sâu sắc trong kháng chiến tại Tây Bắc: tình đồng đội, tình dân tộc, tình mẫu tử, tình yêu đôi lứa – tất cả hiện lên như những cội nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thi sĩ.
-
Qua những hình ảnh cụ thể và cảm xúc chân thực, Chế Lan Viên thể hiện niềm biết ơn sâu sắc với nhân dân, đặc biệt là đồng bào Tây Bắc – những con người đã nuôi giấu, che chở chiến sĩ, những người anh hùng vô danh của cách mạng.
-
Từ đó, bài thơ khẳng định một chân lý: chỉ khi người nghệ sĩ sống và viết từ cuộc đời, từ nhân dân, thì thơ ca mới có giá trị, mới “có thơ” như lời ông viết:
“Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khépTâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.”
5. Nghệ thuật
Tiếng hát con tàu mang đậm phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên giai đoạn sau Cách mạng:
-
Kết hợp giữa tự sự, trữ tình và triết lý: Bài thơ vừa là lời tâm sự nội tâm, vừa mang ý nghĩa khái quát cao về con đường nghệ thuật, về lý tưởng sống của người trí thức cách mạng.
-
Hình ảnh giàu chất biểu tượng: “Con tàu”, “vầng trăng”, “nhựa nóng”… không chỉ là hình ảnh thực mà còn gợi mở chiều sâu tư tưởng, cảm xúc.
-
Giọng điệu thiết tha, mãnh liệt, đầy cảm hứng: Thơ giàu âm hưởng như một khúc ca hào hùng nhưng cũng vô cùng xúc động.
-
Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, điệp ngữ, ẩn dụ, nhân hóa… tạo nên một ngôn ngữ thơ phong phú, sinh động.
-
Kết cấu liên tưởng theo dòng cảm xúc: Bài thơ không bị ràng buộc bởi bố cục hình thức mà được dẫn dắt bởi sự chuyển động mềm mại của tâm hồn nhà thơ.
Kết luận
Tiếng hát con tàu không chỉ là một bài thơ ca ngợi Tây Bắc hay thể hiện nỗi nhớ trong kháng chiến, mà còn là bản tuyên ngôn nghệ thuật giàu tính nhân văn của Chế Lan Viên. Qua hình ảnh con tàu biểu tượng, nhà thơ đã thể hiện một cách sâu sắc khát vọng hòa mình vào cuộc sống rộng lớn, gắn bó với nhân dân, để từ đó tìm thấy ý nghĩa của thơ ca và sự sống đích thực.
Với kết cấu cảm xúc mạch lạc, hình ảnh biểu tượng sâu sắc và giọng điệu thiết tha, bài thơ đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng người đọc về một thời kỳ lịch sử hào hùng, đồng thời khơi dậy trách nhiệm và lý tưởng sống cao đẹp cho lớp lớp nghệ sĩ, trí thức Việt Nam. Đọc Tiếng hát con tàu, ta không chỉ nghe thấy tiếng hát của một con tàu đang rời ga, mà còn cảm nhận được tiếng gọi của Tổ quốc, của nhân dân, vọng lên từ sâu thẳm tâm hồn thi sĩ.
Bài Thơ: Tiếng Hát Con Tàu - Chế Lan Viên, Ngữ Văn Lớp 12
Soạn bài: GV.Thiên Di
Nhận xét
Đăng nhận xét